Lời
cầu của ĐGH Clement XI.
Lậy Chúa, con tin ở Chúa; xin ban
cho con đức tin vững vàng.
Con hy vọng nơi Chúa; xin ban cho
con niềm hy vọng chắc chắn.
Con yêu mến Chúa; hãy giúp con yêu
Chúa nhiều hơn.
Con tôn thờChúa như Khởi Đầu của
con,
và con khao khát Chúa như Cùng
Đích của con.
Con ngợi khen Chúa như Ân Nhân bất
biến của con,
và con kêu cầu Chúa như Đấng Bảo
Vệ độ lượng của con.
Xin hãy hướng dẫn con trong sự
khôn ngoan của Chúa,
hãy cản trởcon bởi sự công chính
của Ngài,
hãy an ủi con bằng sự thương xót
của Ngài,
hãy bảo vệcon bằng sức mạnh của
Ngài.
Con dâng lên Chúa
các ý nghĩcủa con, chỉ để hướng
đến Chúa;
các lời nói của con, để Chúa là
chủ đề các lời ấy;
hành động của con, để thi hành
theo thánh ý của Ngài.
Những Minh Chứng Về Thiên
Chúa.
Khoa học không
bàn đến vấn đề Thiên Chúa, không thể quả quyết có Thiên Chúa hay không, vì không
thuộc lãnh vực nghiên cứu tìm hiểu của nó. Tuy nhiên Khoa học vẫn có thểgiúp
chúng ta dễ dàng nhận biết có Thiên Chúa nhờ những khám phá của nó về vũtrụ
thiên nhiên, về những định luật phân phối hoạt động của sinh vật và con người,
những điều tra khách quan về những việc lạ lùng, những phép lạ đi ngược với
những định luật thiên nhiên do sự can thiệp của một quyền lực siêu nhiên như
sau:
I. VŨ TRỤ MINH
CHỨNG CÓ THIÊN CHÚA
1.
Đại vũ trụ minh chứng có Thiên Chúa
Mở mắt nhìn xung quanh, ta thấy
vũ trụ bao la vô hạn. Khoa học giúp chúng ta hiểu rõ các hiện tượng và sức
chuyển động trật tự của mọi loài vật trong đó. Với con mắt thường, ta có thể đếm
được khoảng 5.000 ngôi sao lấp lánh trên bầu trời bao la. Nhưng nhờ viễn vọng
kính đặt trên núi Wilson, các nhà thiên văn học có thể nhìn thấy hơn 200 triệu
ngôi sao. Còn biết bao nhiêu ngôi sao khác người ta đã biết, nhưng vì ở xa quá
nên tới nay vẫn chưa xác địnhđược. Nguyên ở trong giải ngân hà mà thái dương hệ
của chúng ta chỉ chiếm mộtđịa vị nhỏ bé, người ta cũng đã tính được tới 50 tỷ
định tinh và hằng tỷ sao đã biết. Mà không phải chỉ có một giải ngân hà, hiện
nay người ta đã biết được hằng tỷ giải ngân hà rồi.
Những vì tinh tú to lớn làm sao,
mấy hành tinh ở gần chúng ta như Uranus đã to hơn trái đất gấp 14 lần, Neptune
to hơn 17 lần, Saturne 93 lần, Jupiter 1.279 lần, và mặt trời to hơn những
1.300.000 lần. Sao Sirius còn to hơn mặt trời 12 lần, còn nhiều sao khác còn to
hơn sao Sirius nữa...
Những vì tinh tú ở cách xa nhau
đến nỗi ta không thể đọc bằng con số thường, mà phải lấy đơn vị là quang niên
(năm ánh sáng) như sau: Vận tốc ánh sáng trong một giây đồng hồ là 299.
792.458km, tương đương 300.000 km/giây. Mỗi phút có 60 giây, mỗi giờ có 60 phút,
mỗi ngày có 24 giờ, mỗi năm có 365 ngày ¼. Vậy một quang niên sẽ là
299.792.458km x 60 x 60 x 24 x 365, ¼ sẽ thành 9.460 tỷ cây số. Ánh sáng từ mặt
trời đến trái đất chúng ta phải mất thời gian 8 phút 20 giây, từ trái đất đến
mặt trăng phải mất hơn 1 phút. Nhưng nếu từtrái đất vượt qua thái dương hệ đến
ngôi sao gần nhất trong chòm sao Nhân Mã phải mất thời gian 4 năm (4 quang
niên). Nhờ thiên lý kính ta biết được những tinh vân xa 140 triệu quang niên.
Càng ngày với những kính viễn vọng kính tối tân hơn, người ta lại càng xem thấy
xa hơn nữa.
Trái đất mỗi ngày quay chung
quanh mình một vòng, đang khi nó vẫn chạy theo quỹ đạo mặt trời với vận tốc 30
km/giây, hoặc 108 ngàn km/giờkhông bao giờ sai trật, đến nỗi các nhà bác học có
thể tính trước được ngày giờcủa các hiện tượng nhật thực, nguyệt thực.
Bầu trời rộng
rãi bao la vô hạn thế mà mấy phi công lái máy bay thỉnh thoảng lại đụng nhau gây
nên biết bao tang tóc! Vậy mà từ tạo thiên lậpđịa đến nay vẫn chưa có một hành
tinh nào chạm nhau giữa bầu trời nhiều tinh tú như thế.
Vậy thì vũ
trụ bao la với trật tự kỳ diệu, tuân theo những định luật lạ lùng chính xác như
thế lại không phải là bằng chứng chắc chắn có sự sắpđặt an bài của tạo hóa hay
sao? Becquerel đã nói: “Chính các công cuộc khảo cứu khoa học của tôi đã đưa tôi
đến chỗ nhận biết có Thiên Chúa tạo hóa và làm cho tôi có Đức
Tin”.
2.
Tiểu vũ trụ cũng chứng minh có Thiên Chúa:
Vũ trụ tinh tú khổng lồ thật là
một kỳ công, nhưng vũ trụ nguyên tử tý hon cũng không kém phần lạ lùng kỳ diệu.
Nếu đem phân tích vật chất, ta sẽ thấy như sau:
ĐƠN CHẤT: Mọi vật chất trong vũ
trụ thiên nhiên đều được cấu thành bởi những đơn chất. Chẳng hạn: Cái bàn do
nhiều đơn chất gỗ hợp lại thành. Chiếc nhẫn là do nhiều đơn chất vàng cấu tạo
nên... Những đơn chất này rất nhỏ, nhỏ đến nỗi mắt thường của chúng ta không thể
phân biệt được chúng với nhau.
NGUYÊN TỬ: Mỗi đơn chất nói trên
lại được cấu tạo bởi một sốnguyên tử nhất định. Chẳng hạn: đơn chất nước gồm
nhiều nguyên tử Ôxy và 2 nguyên tử Hyđrô thành H2O.
Các nguyên tử đều khác nhau tùy
theo mỗi vật: nguyên tử đồng khác nguyên tử sắt, nguyên tử vàng khác nguyên tử
gỗ... Những nguyên tử này ởrải rác khắp nơi trong vũ trụ, khi thì kết cấu với
cái này, khi thì với cái khác làm thành sự biến hóa vật chất không ngừng trong
thiên nhiên. Ta có thể ví các nguyên tử giống như 24 chữ cái a, b, c... hợp tan,
tan hợp, là thành mọi chữ. Đến nay các nhà bác học đã xác định được 92 nguyên tử
khác nhau.
Nguyên tử nhỏ lắm, nhỏ đến nỗi
những kính hiển vi phóng đại mạnh nhất cũng không thể nhìn ra được. người ta chỉ
căn cứ vào dấu vết nó đi qua đểnhận biết có nó. Hiện nay những kính hiển vi tối
tân nhất có thể nhìn những vât nhỏ bằng 2 phần 10 triệu milimét. Nhưng như thế
vẫn còn lớn hơn nguyên tử bằng mấy triệu lần!
Mỗi nguyên tử là một thái dương
hệ, có một nhân ở trung tâm giống như mặt trời, gồm các dương điện tử (Proton)
và trung hòa tử (neutron) liên kết với nhau. Lượn chung quanh nhân là chi chít
những âm điện tử(electron), Các âm điện tử này chạy chung quang trung tâm với
tốc độ 297. 000km/giây. Mỗi giây đồng hồ nó chạy được 500 ngàn triệu vòng. Thật
không khác gì các hành tinh lượn chung quanh mặt trời và cách xa nhau tương đối
cũng bằng khoảng cách của các hành tinh đối với mặt trời vậy.
Khoảng giữa các nguyên tử, có gì
không? Thực không có gì hết. Nếu các nguyên tử sát lại với nhau thì ta không thể
nâng nổi đầu của một cái kim khâu. Trọng lượng của các vật nặng nhẹ khác nhau là
vì cách xếp đặt nguyên tử của các vật đều khác nhau. Nếu người ta có thể dồn ép
các nhân dương điện tửtrong một nguyên tử, và các nguyên tử trong thân thể con
người khít lại gần nhau, thì thân thể ta chưa chắc to bằng một hột đậu, mà vẫn
cân nặng như hiện nay!
Có một sức lực ghê gớm đã giữ cho
trái đất và các hành tinh quay chung quanh mặt trời, thì cũng có một sức lực
tương tự giữ âm điện tử quay chung quanh trung tâm nguyên tử như vậy. Nếu lợi
dụng được sức mạnh mẽ đó, thì người ta sẽ có một sức mạnh kinh khủng. Đó là điều
các nhà bác học đã làm đểchế tác bom nguyên tử với chất Uranium. (Bom nguyên tử
là một thứ khí giới tối tân nhất có sức tàn phá do những hạt nguyên tử bị tách
ra, Raium luôn luôn chiếu ra những quang tuyến “A. B. Y” và quang tuyến Y luôn
luôn phát ra những chất cực nhỏ có thể xuyên qua những tấm sắt dầy 20cm. Chỉ có
lớp chì dày mới có thể cản được sức tàn phá của nó.)
Những điều
nói trên cho ta thấy có sự xếp đặt, an bài trật tự từcái cực to đến cái cực nhỏ,
trật tự ấy lại rất hoàn hảo không thể làm khác điđược. Nếu cố tình làm sai thì
sẽ gây nên những hậu quả tai hại không thể lườngđược.
Một câu chuyện xảy ra chứng minh
trật tự thiên nhiên hoàn hảođến độ nào: một con ong dù không có trí khôn, nhưng
nó luôn phải bó buộc làm theo bản năng thúc đẩy. Theo bản năng thiên phú, khi
làm tổ chứa mật, ong tựnhiên xây bình chứa hình lục lăng. Các nhà bác học đã
quan sát nghiên cứu cách xây dựng tổ ong, và đã đo rất nhiều bình do nhiều loại
ong thực hiện, bao giờgóc tù của bình ấy cũng là 109028’ và góc nhọn cũng là
70032’.
Nhà bác học Reamur một ngày kia
đặt câu hỏi thế này: Giả sử muốn làm một cái bình hình lục lăng có khả năng chứa
nhiều nước nhất thì phải làm mỗi góc của bình ấy bao nhiêu độ? Một nhà bác học
ra công tính toán những con tính rắc rối với việc sử dụng cả bảng tính
Logarithme, cuối cùng tuyên bố kết quả: muốn cho bình chứa được nhiều nước nhất
phải làm góc tù là 109026’ và góc nhọn là 70034’. Chỉ sai biệt với bình chứa của
ong làm có 2’.
Thế rồi một ngày nọ xảy ra tai
nạn làm hỏng một chiếc tầu. Thuyền trưởng không chịu trách nhiệm và cho rằng
mình đã làm đầy đủ bổn phận,đã tính toán rất đúng. Vậy sở dĩ có rủi ro là vì
đường vĩ tuyến có sự sai lầm nào đó. Sau khi tìm tòi lâu ngày, người ta mới khám
phá ra rằng trong bảng tính Logarithme có một chổ sai, khiến vị thuyền trưởng
làm tính sai và gây ra tai nạn cho chiếc tầu. Chữa lại chỗ sai trong bảng tính
rồi thử lại với cách tính 2 góc của hình lục lăng nói trên thì các nhà bác học
mới thấy mình đã làm sai 2’.Phải thực hiện chiếc bình theo góc tù là 109028’ và
góc nhọn cũng là 70032’ nhưcon ong đã làm mới đúng.
Vậy loài ong
không có trí khôn biết tính toán như con người, chỉbiết làm theo bản năng thiên
phú, thế mà lại làm đúng hơn cả những nhà bác học thông minh nhất! Đứng trước sự
kiện hiển nhiên ấy, loài người phải đặt vấn đề:Cái trật tự hoàn hảo nói trên bởi
đâu mà có nếu không bởi một trí khôn siêu vượt đã có thể sáng tạo và an bài vạn
vật trong một trật tự được gọi là định luật thiên nhiên nơi vũ trụ và bản năng
nơi các sinh vật. Nguyên nhân ấy chính là Thiên Chúa sáng tạo vậy.
II. SINH VẬT
CHỨNG MINH CÓ THIÊN CHÚA:
Sự sống tràn đầy trên mặt đất,
đâu đâu ta cũng nhận thấy có sinh vật hoạt động. Nhưng cho tới nay, sự sống vẫn
còn là một huyền nhiệm mà khoa học bất lực không thể giải thích được lý do. Sự
sống là một điều phi lý nếu không công nhận có Thiên Chúa sáng tạo:
1.
Huyền nhiệm của sự sống:
Sự sống là một cái gì đó huyền
bí. Người ta chỉ có thể cảm nghiệm hay chỉ có thể thấy được hiệu quả của sự
sống, chứ không thể nhìn được chính sự sống như thế nào nơi cơ thể một vật sống
động. Người ta cũng có thểlàm thay hình đổi dạng, cắt cụt một phần cơ thể con
vật, có thể làm cho nảy nởnhanh chóng hơn, hoặc kéo dài them chút ít sự sống,
nhưng không bao giờ có thểthay đổi được nguyên lý của sự sống nơi con vật. Chẳng
hạn: , con chó đã được cấu tạo trở thành loài chó, thì không có cách nào làm cho
nó hóa ra loài bồ câuđược.
Để tìm hiểu sự sống, các nhà bác
học đã phân chất một quả trứng gà, rồi dùng các chất y như vậy để làm nên một
quả trứng gà khác với đầy đủ mọi tính chất như trứng gà thực. Tuy vậy, dù được
cấu tạo giống hệt như nhau, mà khi đem cả hai vào máy ấp thì trứng gà đẻ sống và
nở ra con, còn trứng gà của các nhà bác học “đẻ” thì chết và bị hư thối. Sở dĩ
trứng nhân tạo không thểsống, dù các yếu tố vật chất trong quả trứng ấy vẫn hoạt
động đúng theo luật vật lý hóa học, là vì không có một sức lực vô hình liên kết
các hoạt động ấy vềmột hướng chung, phát triển theo một mô thức chung. Chính sức
lực vô hình ấy là bí mật của sự sống. Bác sĩ Alexis Carrelđã trình
bày về sự tăng triển kỳ diệu của sự sống từ một tế bào, rồi tế bào ấy tự phát
triển theo một mô thức đặc biệt để trở thành con vật như sau:
“Con vật được cấu tạo bởi những
tế bào, cũng giống như cái nhàđược xây dựng bằng những viên gạch. Nhưng con vật
xuất phát từ một tế bào duy nhất, như thể cái nhà chỉ bắt nguồn từ một viên gạch
mà thôi. Một viên gạch đầu tiên tự tạo lấy những viên gạch khác, chỉ với nước
suối, những chất muối tan trong nước và khí trời. Rồi những viên gạch ấy không
cần đến kiến trúc sư vẽkiểu, không cần đến bàn tay của thợ hồ, đã tự động kết
hợp thành những bức tường. Các viên gạch cũng tự động biến thành các tấm kính để
làm cửa, ngói đểlợp mái, than để đốt lò, nước để làm bếp”.
(Alexis Carrel: L’honme cet
inconnu. P 160)
Như vậy thì hình như mầm giống
con vật sinh sống đã biết trước cái nhà mà nó xây dựng. hiện tượng kỳ lạ ấy diễn
ra hằng triệu lần mỗi ngày cho hằng triệu giống vật sinh sống, cũng như diễn ra
âm thầm trong bụng những con vật mẹ.
Khi nhìn vào
sinh vật thượng đẳng là con người chúng ta lại càng thán phục sự tinh vi kỳ diệu
và hoàn hảo của sự sống: hai cuống phổi là một xưởng máy sản xuất dưỡng khí thật
tinh vi. Dạ dày là một nhà máy chế biến đồ ăn trở thành chất bổ nuôi dưỡng cơ
thể. Gan là bộ máy phát ra sức nóng và sức chuyển động. Thận là nhà máy lọc các
chất dơ. Trái tim là thứ máy bơm hai chiều. Óc và hệ thần kinh là nhà máy điện
tử với một hệ thống liên lạc để điều khiển toàn than. Hai tay là hai cơ quan
hành động hữu hiệu. Chân là cơ quan đểdi chuyển. Mắt là một thứ máy chụp tự động
tối tân nhất. Tai là đài ra đa sốngđộng. Họng là máy phát thanh hoàn hảo... Có
thể nói: cơ thể sống động của con người thực là một hiện tượng thần kỳ và khó
hiểu nhất trong vũ trụ thiên nhiên, là một kỳ quan lớn nhất trong các kỳ quan
trên thế giới.
Vậy sự sống
bí nhiệm lạ lung nơi các sinh vật từ hạ đẳng đến thượng đẳng nói trên bởi đâu
xuất hiện?
2.
Nguồn gốc của sự sống:
Nói về nguồn gốc sự sống do đâu
mà xuất hiện thì có rất nhiều giả thuyết khác biệt nhau được nêu ra:
a) Một số người quả quyết rằng:
sự sống vẫn có ngay từ buổi đầu, khi trái đất bắt đầu thành hình.
Nhưng theo các nhà khoa học thì
trái đất khi mới xuất hiện là một khối lủa có nhiệt độ rất cao ở thể chảy lỏng
rồi với thời gian mới nguội dần đi. Như vậy, sự sống làm sao có thể chịu nổi sức
nóng kinh khủng thưở banđầu ấy để tồn tại được. Nhà cổ sinh vật học trứ danh,
ông Cuvier quả quyết rằng: “Nhất định sự sống không bắt đầu cùng với trái đất.
Một nhà quan sát sẽdễ dàng nhận biết lúc nào sự sống mới xuất hiện và lưu lại
vết tích dưới các tầng đất của địa cầu”.
Vậy đầu tiên không có mà ngày nay
ta thấy sự sống tràn lan trên mặt đất. Thế thì sự sống bởi đâu mà
ra?
b) Có người nghĩ rằng: sự sống
ngày nay là do các mầm sống từmột nơi nào đó trên không trung rơi xuống mặt đất,
rồi sau đó sinh sôi nảy nởthem ra và lan tràn đi khắp nơi.
Nếu thực sự có mầm sống từ trên
không trung rơi xuống như thế,thì lại phải giải thích: Cái mầm sống ấy bởi đâu?
Hơn nữa, theo những khám phá mới nhất của khoa học không gian thì những hành
tinh gần chúng ta như mặt trăng (cũng là một hành tinh ngang hang với trái đất
chứ không phải phát xuất từ tráiđất!), Kim tinh, Hỏa tinh đều không có dấu hiệu
nào cho biết có sự sống cả.Đàng khác, nếu có mầm sống rơi như vậy, thì theo các
nhà khoa học: mầm sống ấy chắc chắn không thể sống được, mà đã bị các tia phóng
xạ xủa ánh sáng mặt trời tiêu diệt rồi.
c) Cũng có người cắt nghĩa: sự
sống tự nhiên mà có. Trong mộtđiều kiện nào đó về nhiệt độ và khí hậu... Thì vật
chất sẽ tự hóa sinh ra các sinh vật. Chẳng hạn: Cái bàn bằng gỗ sau thời gian ít
năm sẽ bị mọt ăn, hoa quảthối chin sẽ nảy sinh ra dòi bọ...
Nhưng thuyết này đã bị Pasteur và
Tyndall chứng minh ngược lại. Hai nhà bác học thời danh này đã làm một thí
nghiệm chứng minh: không bao giờcó sự tự hóa sinh. Hai ông đã cô lập hóa một vài
môi trường và sự sống thường hay phát sinh. Rồi tìm cách loại bỏ, giết chết tất
cả các mầm sống vốn có sẵn trong môi trường ấy. Hai ông cho biết: dù có đủ mọi
điều kiện thích hợp, môi trường bị cô lập kia cũng không bao giờ có thể tự hóa
sinh sự sống nữa. Vậy sởdĩ có trường hợp vật chất hóa sinh sự sống là vì đã có
sẵn mầm sống trong vật chất đó, nên khi đủ điều kiện liền nảy nở. Thực sự không
có vấn đề ngẫu sinh hay tự hóa sinh cả.
d) Ngoài ra, tất cả những thí
nghiệm nhằm tạo nên tế bào sống dầu thất bại. Stephane Ledue, một vị giáo sư
sinh vật học đã thử làm một hạt giống nhân tạo. Ông phân chất một hạt giống
thật, rồi dùng những chất liệu nhưvậy để chế tạo ra một hạt giống khác. Sau một
thời gian quan sát, ông cho nhận xét: hạt giống nhân tạo cũng mọc lên, có rễ, có
thân nhưng vẫn không có sựsống, không thở, không lưu chuyển nhựa sống. Sở sĩ cây
có mọc lên mà không sống là vì thiều hai đặc tính quan trọng của sự sống: có tổ
chức và tự dinh dưỡng. Còn sự mọc rễ, mọc thân nói trên cũng chỉ là một hiện
tượng vật lý hóa học của các chất hữu cơ, chứ không có một chút dấu vết của sự
sống thực sự. Bác sĩ Halluin giải thích thêm về hiện tượng mọc rễ mọc thân như
sau: “Hạt giống mọc lên thực ra không sống, cũng giống như núi đá mọc trồi lên
mà không sống. Một quả bóng khi được thổi hơi cũng phồng to ra mà vẫn không
sống. Thân cây rong biển khô sẽphình to lên khi ở chỗ ẩm ướt và vẫn không phải
là dấu hiệu của sự sống”.
e) Nhà bác học Delage đã làm một
thí nghiệm về sự thụ thai nhân tạo: ông cho một con hải đởm cái thụ thai mà
không theo cách thức thông thường là giao hợp với con đực. Mượn lấy thí nghiệm
ấy, một số người vô tín ngưỡng đã vội vàng lên tiếng quả quyết: “Loài người đã
dựng lên được sự sống”.
Nhưng chính Delage lại phủ nhận
quả quyết mà người ta đã gán cho thí nghiệm của ông như sau: “Khi tôi làm được
cho con hải đởm thụ thai và sinh con như thế, người ta kêu ầm ĩ lên rằng: tôi đã
dựng lên được sự sống. Nhưng thực sự tôi chẳng dựng lên được gì cả. Những ống
tiêm của tôi chỉ có thể ảnh hưởng đối với trứng của con vật kia, khi tiêm vào đó
một chất hữu cơ. Còn nói rằng tôi đã dựng nên được sự sống thì thực là lầm
to!”
Như vậy,
không có vấn đề ngẫu sinh, không có tự hóa sinh tuyệtđối. Khoa học không thể làm
được một vật sống động nếu không có sẵn một mầm sống trước đó. Nếu sự sống không
tự nhiên có thì phải nhận có sự sáng tạo của một nguyên nhân tối hậu nào đó.
Nguyên nhân ấy là Thiên Chúa. Chính Ngài đã sáng tạo sự sống cách trực tiếp hay
gián tiếp bằng cách xếp đặt một trật tự,một định luật trong vật chất, để khi có
đủ điều kiện thì mầm sống ấy sẽ xuất hiện.
Ngoài ra, khi tìm hiểu vũ trụ
thiên nhiên, người ta cũng nhận ra rằng: có một sự xếp đặt nhằm bảo tồn sự sống
nơi các định luật thiên nhiên chi phối sự vận hành của các hành tinh trong vũ
trụ.
3.
Bảo tồn sự sống:
Khoa học cho biết: sự sống chỉ có
thể tồn tại và phát triển nếu hội đủ điều kiện về khí hậu, nhiệt độ, ánh sáng...
Nếu thiếu một trong các điều kiện quan trọng thì sinh vật khó long sống được.
thế mà khi quan sát các hiện tượng thiên nhiên, người ta lại đi kết luận chung
như sau: Có một sự xếp đặt nào đó để bảo tồn sự sống trong vũ trụ. Thực vậy:
a. Tốc độ quay của trái đất cũng
giúp bảo tồn sự sống. Trái đất hiện đang quay với tốc độ 1.600 km/giờ ở đường
xích đạo. Nếu quay chậm đi 10 lần, thì ngày và đêm trên địa cầu sẽ kéo dài gấp
10 lần hiện nay. Như vậy thì một số cây sẽ bị chết khô còn lại bao nhiêu sẽ bị
chết cóng
b. Khoảng cách giữa mặt trời và
trái đất cũng giúp bảo tồn sựsống: Mặt trời có nhiệt độ 5. 500 nhiệt độ. Trái
đất cách quãng xa vừa đủ đểcho chúng ta được sưởi ấm. Nếu giảm đi một nửa thì
mọi sinh vật sẽ chết vì lạnh. Nhưng nếu tăng them một nữa đến gần mặt trời hơn
thì chắc chắn mọi vật sẽbị chết cháy hết.
c. Độ nghiêng của trái dất cũng
giúp bảo tồn sự sống: Trái đất phải ở vị trí hiện nay, nghĩa là nghiêng 23 độ
thì nó có bốn mùa xuân hạ thuđông và hai cực mới khỏi bị chồng chất băng. Nếu
nghiêng ở vị trí khác thì mùa màng sẽ thay đổi khác hẳn, sẽ ảnh hưởng tới sự đâm
trồi nảy lộc và đơm bong kết quả của cây cối.
d. Khoảng cách giữa trái đất và
mặt trăng cũng giúp bảo tồn sựsống: Nếu mặt trăng gần lại trái đất 80.000 cây số
thì mỗi ngày nước biển sẽbao phủ lục địa 2 lần và cuốn trôi mọi vật đi ra biển.
Như vậy,
trước những lý chứng hiển nhiên nói trên mọi người có trí khôn đều phải công
nhận: phải có một trí khôn siêu việt và một bàn tay quyền năng nào đó đã tạo
dựng nên sự sống một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, vàđã an bài xếp đặt chúng
những điều kiện thiên nhiên hoàn hảo như hiện nay. Trí khôn siêu việt và bàn tay
quyền năng ấy chính là Thiên Chúa sáng tạo vậy.
III. LUẬT LUÂN
LÝ MINH CHỨNG CÓ THIÊN CHÚA:
1.
Nơi mỗi người đều có luật luân lý:
Ai trong chúng ta cũng đều nghe
thấy một tiếng nói thầm kín khuyên dục phải làm điều lành và tránh làm điều ác.
Đồng thời ta sẽ cảm thấy niềm vui thỏa sau khi được thực hiện một điều thiện,
trái lại sẽ bị ray rứt bất an nếu cố tình làm trái tiếng nói thầm kín ấy. Đó là
tiếng nói của lương tâm, một thứ luật tự nhiên có sẵn trong tâm trí mỗi người từ
khi sinh ra.
Luật tự nhiên này có những đặc
tính khác hẳn những định luật vật lý hóa học, hoặc luật lệ do xã hội quy định
như phong tục tập quán của xã hội hoặc luật pháp của quốc gia.
+ Luật lý hóa là một khi đủ điều
kiện thì đương nhiên phải xảy ra. Chẳng hạn: lửa gặp rơm khô ngoài khí trời tất
nhiên phải cháy. Còn luật luân lý thì không phải chỉ lệ thuộc điều kiện bên
ngoài, nhưng nhất là lệ thuộc sự lựa chọn tự do, lựa chọn mà con người trở thành
một loài giá trị nhất, khác hẳn giống vật hành động cách máy móc hoàn toàn do
bản năng mù quáng thúc đẩy. Văn hào Chateaubriand đã nói: “Con hổ xâu xé cái mồi
ngon rồi ngủ ngay đi được, duy chỉ có con người xác nhận, sau khi đã nhúng máu
thì khó lòng nhắm mắt bình an được, vì những hình ảnh báo oán luôn hiện lên
trước mắt y.
+ Luật xã hội do nhiều người
trong xã hội quy định gọi là phong tục tập quán. Luật pháp quốc gia do một số
người đại diện có trách nhiệm thiết lập nên và được ghi chép lại thành văn để
mọi người trong quốc gia ấy tuôn giữ.Trong khi luật luân lý vẫn có sẵn trong mỗi
người từ khi sinh ra, chứ không nhất thiết phải có ai dạy mới biết, không được
ghi chép thành văn giống nhưluật quốc gia ở trên. Thế mà hầu như mọi người không
phân biệt thời đại, dân tộc, quốc gia... cũng đều viết cùng một bộ căn bản giống
nhau là: phải làm việc thiện, phải tránh điều ác, không được giết người vô tội,
không được ăn cắp hoặc cướp đoạt tài sản người khác cách bất công, phải thảo
hiếu cha mẹ, trọng kính người trên v.v... Mà nếu cố tình làm trái với điều nói
trên thì đương nhiên sẽbị lương tâm trách móc, dù việc làm của mình kín đáo.
Câu chuyện Cain trong Thánh Kinh
chứng tỏ điều đó. Cain vì ghen tuông nên đã phạm tội giết đứa em ruột là Aben,
rồi sau đó đã chạy trốn, con mắt lương tâm theo dõi mà cũng không thoát, cuối
cùng đã tìm đến cái chết thảm khốc để chuộc tội. Nhà văn hào Plutarque người Hy
lạp cũng kể câu chuyện như sau: Một gã tên là Pessus phạm tội giết cha. Dù không
ai hay biết việc làm của hắn, nhưng có điều lạ là từ hôm đó, Pessus luôn luôn
nghe những con én lặp đi lặp lại: “mày là thằng giết cha, mày là thằng giết
cha”, dù thực sự loài én chỉbiết kêu một âm thanh như thường lệ. Hắn tìm cách
phá hết mọi tổ én, nhưng vẫn không xong. Cuối cùng hắn phải thú nhận với người
ta rằng những con én luôn kêu hắn là kẻ giết cha. Sinh nghi, người ta mở cuộc
điều tra và việc giết cha của hắn bị bại lộ.
Như vậy đã
nói rằng có một thứ luật luân lý tự nhiên gọi là tiếng nói của lương tâm chi
phối mọi hành động của con người có trí khôn thuộc mọi thời đại, mọi dân tộc màu
da, tiếng nói... Vậy thì luật luân lý ấy bởi đâu mà ra?
2.
Nguồn gốc của luật luân lý nơi con người.
Có một số người nói rằng luật
luân lý tự nhiên nơi mỗi người là do tự mình, đặt ra luật cho mình, hoăc cũng có
thể do xã hội khuôn đúc giáo dục ngay từ khi còn nhỏ rồi nhập tâm dần dần. Nhưng
khi đi sâu vào việc nghiên cứu tìm hiểu, chúng ta nhận thấy không phải như vậy
vì những lý do như sau:
a. Lương tâm mỗi người không phải
tự mình đặt ra:
Vì nếu mỗi người tự đặt ra luật
cho mình tuân giữ thì chắc chắn người ta sẽ phải đặt ra những luật nào đem lại
lợi ích và dễ dàng áp dụng, đồng thời sẽ loại bỏ những luật nào có hại cho quyền
lợi cá nhân của mình. Nhưng luật luân lý có những đặc tính khác hẳn: khó giữ vì
không phải luôn phù hợp với khuynh hướng xấu của con người, nên chắc không phải
do mỗi người tự đặt ra.Đàng khác, nếu mỗi người đều tự lập ra luật riêng cho
mình thì chắc luật luân lý sẽ phải khác nhau chứ không thể có sự đống nhất như
ta thấy trong luật luân lý chung hiện ở nơi mỗi người được.
b. Luật luân lý cũng không phải
do xã hội giáo dục, khuôn đúc dần dần trong tâm hồn mỗi người từ nhỏ đến lớn là
vì:
- Xã hội là do nhiều cá nhân kết
hợp lại thành. Nếu luật luân lý do xã hội giáo dục thì chỉ những ai sống trong
xã hội mới biết và tuân giữ luật luân lý ấy. Nhưng trong thực tế có những người
vẫn sống một mình từ nhỏ tới lớn, không tiếp xúc hay chịu ảnh hưởng của xã hội,
thế mà họ vẫn biết cũng một thứ luật luân lý như mọi người khác. Như vậy, luật
luân lý tự nhiên chắc không phải do xã hội, không bắt nguồn từ xã hội.
- Đàng khác, nếu luật luân lý bắt
nguồn từ xã hội thì chắc sẽphải thay đổi tùy theo mỗi xã hội, chứ không thể có
tính đồng nhất như tiếng nói của lương tâm mỗi người được.
Vậy phải đi
đến kết luận: luật luân lý tự nhiên có sẵn trong tâm hồn mỗi người ngay từ khi
mới sinh ra, chứ không phải mỗi người tự đặt ra luật cho mình, cũng không phải
do xã hội khuôn đúc giáo dục mới có được. Cha mẹ,thầy dạy hay xã hội chỉ đóng
vai trò phụ thuộc, giúp cho luật ấy có cơ hội phát triển mau lẹ, dễ dàng và rõ
ràng hơn trong tâm hồn đứa trẻ mà thôi. Luật luân lý tự nhiên ấy phải do Tạo hóa
đã in sẵn trong tâm hồn con người có lý trí tương tự như một bản năng của thân
xác. Đấng ấy chính là Thiên Chúa. Bessuet đã nói: “Những chân lý vĩnh cửu và bất
biến của luật luân lý bó buộc ta phải công nhận có một Đấng mà chân lý vĩnh cửu
luôn tồn tại nơi Ngài”.
IV. NHỮNG VIỆC
LẠ LÙNG MINH CHỨNG CÓ THIÊN CHÚA:
Ngay trong thế kỷ 20, thế kỷ khoa
học tiến bộ vượt bậc trong việc tìm hiểu và khám phá những định luật chi phối vũ
trụ thiên nhiên, chi phối mọi sinh vật, động vật kể cả con người... Thế mà vẫn
không thiếu những trường hợp lạ lùng trái ngược luật tự nhiên xảy ra khắp nơi:
khỏi bệnh nan y một cách tức khắc không do sự chữa trị thông thường, mà do một
thứ quyền lực thiêng liêng nào đó ngoài tầm hiểu biết của khoa học. Những hiện
tượng xáo trộn trật tự vũ trụ như mặt trời quay ở Fatima Bồ Đào Nha vào đầu thế
kỷ này đã được hằng vạn người chứng kiến v.v... Tất cả những hiện tượng ấy gọi
chung là phép lạ.
1.
Có phép lạ thực hay chỉ là bịa đặt:
Từ ngày 11/02/1858, tại thành Lộ
Đức (Lourdes) nước Pháp đã xảy ra nhiều sự lạ lùng: Đã có rất nhiều bệnh nhân
đến viếng hang đá, nơi Đức Mẹhiện ra với Bernadette và được ơn lạ khỏi bệnh tức
khắc trái với luật thông thường.
Để kiểm chứng, năm 1882, người ta
thiết lập ngay tại chỗ một phòng thí nghiệm khoa học. Phòng mở cửa cho bất cứ ai
có bằng y sĩ, không phân biệt tín ngưỡng hay quốc gia... Các bác sĩ đều có thể
xem tất cả hồ sơ của tất cả bệnh nhân nào đã được ơn khỏi bệnh một cách lạ lùng,
và còn có hy vọng được chứng kiến tận mắt những trường hợp khác vào những dịp
hành hương. Những ngườiđã được khỏi bệnh lạ lùng thường được mới đến để khám
nghiệm lại vào những năm sau đó, không phải để các bác sĩ này xác nhận phép lạ
mà chỉ có ý tìm hiểu xem những bệnh nhân này có được khỏi thực hay không, và
được khỏi trong trường hợp nào. Các y sĩ vì nhân danh khoa học để kiểm tra nên
đã tỏ ra rất khắt khe trong việc công nhận khỏi bệnh cách lạ. Tất cả những
trường hợp có thể hết bệnh do luật tự nhiên đều bị bác sĩ bỏ thẳng tay. Cho tới
năm 1947, trong số 35 trường hợp họ chỉ công nhận có 6. Số 6 này là số không còn
cách nào khác để chối cãi nữa.
Ngoài phòng khám bệnh khoa học
của các bác sĩ, vào năm 1905, nhiều vị giám mục cũng đã thành lập một ủy ban
điều tra chính thức của giáo quyền nhằm phân quyết những trường hợp nào là phép
lạ, trường hợp nào là không.Ủy ban làm việc môt cách cẩn thận và vô tư theo cách
thức của một tòa án. Những trường hợp được tuyên bố là phép lạ thì không thể hồ
nghi gì được nữa. Từ năm 1905 đến 1913, ủy ban này đã công bố 32 trường hợp là
phép lạ thực.
Như vây, phòng khám nghiêm của
các y sĩ cũng như ủy ban các giám mục đều đã xác nhận tại Lộ Đức đã có những
trường hợp khỏi bệnh cách lạ lùng.
2.
Những phép lạ bởi đâu?
Những người không tin có Thiên
Chúa khi đứng trước những trường hợp lạ lùng khoa học không thể giải thích được,
đã đem ra rất nhiều lý lẽ đểphủ nhận sự can thiệp của Thiên Chúa như sau:
a. Khỏi bệnh là vì trong nước
suối ở hang Lộ Đức có pha lẫn một thứ chất hóa học có năng lực chữa được một số
bệnh tật.
Nhưng thực sự, khi đem phân chất
thì kết quả cho thấy nước suốiấy cũng chỉ là một thứ nước lã bình thường như bao
thứ nước khác, không có thêm một chất nào khác có thể chữa bệnh cả. Đàng khác,
có nhiều trường hợp bệnh nhân không xuống đến nước, cũng không uống chút nước
ấy, thì bảo khỏi bệnh tại nước thế nào được?
b. Khỏi bệnh là vì lý do tâm lý:
vì quá tin và muốn được khỏi cách mãnh liệt, nên đã ám thị mình đến độ trở thành
sự thực.
Nhưng nếu tin tưởng và ám thị có
thể chữa được bệnh, thì nếu muốn được khỏi, bệnh nhân trước hết đã phải biết
tin, biết ám thị. Thế mà có nhiều trường hợp trẻ con chưa có trí khôn, chưa biết
gì hết mà vẫn được khỏi nhờ lời cầu nguyện của người khác, thì khỏi bệnh đâu
phải tại tin hay tại ám thị. Thực ra, ám thị cũng có thể có đôi chút ảnh hưởng
đến một vài thứ bệnh tâm lý, đau thần kinh, điên loạn, chứ không bao giờ có thể
chữa được các bệnh do vi trùng hay siêu vi trùng gây ra như: Bệnh phong cùi, ung
thư, thổ huyết, lao phổi...
c. Khỏi bệnh là do ảnh hưởng của
một thứ luật tự nhiên thực sựchi phối, thì luật ấy phải có tác dụng điều hòa,
đồng nhất, bất di dịch, cho dù chúng ta có biết luật ấy hay không thì nó vẫn tác
dụng. Hễ có hội đủ điều kiện là đương nhiên kết quả phải xảy ra. Chẳng hạn, một
người mù trước làm thế nàođể được khỏi thì các người sau cứ làm đúng như thế
cũng sẽ đương nhiên được sáng mắt. Nhưng ở Lộ Đức thì tình trạng lại khác hẳn:
Có người được khỏi khi tắm, người khác thì cầu nguyện vào những thời gian khác
nhau trong ngày, lúc sáng, lúc trưa, lúc chiều, lúc tối... Ở điều kiện nào cũng
có người được khỏi. Có những trường hợp hai người bệnh cùng trong một hoàn cảnh,
cùng một thứ bệnh như nhau, mà người thì được khỏi, người thì không. Như vậy,
không thể công nhận có một luật bí mật được.
d. Khỏi bệnh vì lừa dối, bịp bợm,
cần phải chờ sự phán quyết của các nhà bác học hoàn toàn vô tư.
Carrel, một vị tiến sĩ y khoa,
giáo sư giải phẫu học tại đại học Lyon Pháp, trước khi đi Lộ Đức quan sát tận
nơi cũng đã nghĩ như vậy. Ông cho rằng: có lẽ các nhà khoa học chưa khám nghiệm
kỹ cho đủ, có thể còn một vài sơ xuất chưa cân nhắc tường tận. Theo Carrel:
Ngoài những sự kiện khoa học tìm ra và kiểm chứng rõ ràng thì không còn chân lý
nào khác có giá trị. Không thể có phép lạ được! Nhưng trước sự khỏi bệnh lạ
thường của Marie Ferrand, một cô gái đang hấp hối vì bệnh lao ruột ở giai đoạn
chót mà các bác sĩ đều từ chối không giám mổ cho cô, mà Carrel đã chứng kiến tận
mắt từ khi cô gái này mới đến Lộ Đức cho tới lúc khỏi bệnh tức khắc một cách
không thể cắt nghĩa được. Ông đã chịu khuất phục và ghi chú trong nhật ký: “Thật
là một chuyện không có thể, nhưng có thực. Quả là bất ngờ: một phép lạ vừa mới
xảy ra”. Ngay lúc đó không còn tin ở mình, Carrel lập tức mời hai bác sĩ bạn ông
tới chứng kiến và các ông này cũng đều chứng nhận: “Cô này không còn bệnh gì
hết, cho cô ra khỏi nhà thương”.
Việc bác sĩ vô thần Carrel thay
đổi tâm hướng đã nói lên một sựthật mà con người dù yêu sách đến đâu cũng phải
suy nghĩ: Quả thật, có Đấng tạo hóa, có Thiên Chúa. Ngài là Đấng đã thiết lập
trật tự trong vũ trụ thiên nhiên, thì trong môt vài trường hợp đặc biệt, Ngài
cũng có thể để cho xảy ra ngoài trật tự ấy. Đó chính là phép lạ vậy.
TÓM LẠI:
Trước những trật tự lạ lùng trong
vũ trụ thiên nhiên, trước việc sự sống tràn đầy trên mặt đất, trước những luật
luân lý in sâu trong tâm hồn mỗi người, trước những phép lạ mà khoa học đành bất
lực không thể tìm ra lời giải thích hợp lý... Chúng ta phải công nhận có ĐẤNG
TẠO HÓA, CÓ THIÊN CHÚA SÁNG TẠO. Chính Ngài đã tạo dựng nên vũ trụ và đã an bài
chúng theo một trật tựchung mà khoa học gọi là định luật thiên nhiên. Chính Ngài
là nguồn gốc của sựsống, đã tạo thành mọi sinh vật từ thấp kém đến cao quý nhất,
và đã phủ cho chúng những bản năng riêng để có thể tự phát sinh và tồn tại. Cũng
chính Ngài là tác giả của bộ luật luân lý tự nhiên in sẵn trong tâm trí con
người ngay từkhi sinh ra. Sau cùng, Ngài cũng là nguyên nhân của những trường
hợp đặc biệt xảy ra ngoài trật tự tự nhiên mà khoa học không thể cắt nghĩa được.
Như vậy, tuy khoa học không thể
chứng minh có Thiên Chúa một cách trực tiếp vì ngoài phạm vi nghiên cứu của nó,
nhưng khoa học vẫn có thểgóp phần quan trọng trong việc tỏ rõ kỳ công của Ngài.
Chính nhờ những hiểu biết rõ ràng chính xác do khoa học đem lại, con người dễ
dàng sử dụng trí khôn suy luận để nhận ra một bàn tay quyền năng, một trí khôn
siêu việt đã xếp đặt và tạo dựng nên vũ trụ vạn vật. Bàn tay và trí khôn ấy
chính là Thiên Chúa.
Newton, một nhà thiên văn học
lừng danh đã dám mạnh dạn lên tiếng quả quyết: “Tôi đã nhìn thấy Thiên Chúa ở
đầu thiên lý kính của tôi”.
P. Termier cũng cho biết: “Mọi
khoa học đều chuẩn bị trí khôn ta nhận biết Thiên Chúa hiện hữu. Hơn mọi người
khác, nhà bác học dù chuyên vềkhoa nào cũng thế, bao giờ cũng dễ dàng nhận thấy
mọi vật đều biến chuyển, bịtạo bất tất, hỗn hợp, khuyết điểm... có cùng đích và
rất phức tạp. Do đó, nhà khoa học sẽ dễ dàng có y tưởng về một Đấng tạo hóa bất
biến, tự hữu cần thiết,đơn thuần, hoàn hảo, và là Đấng duy nhất an bài mọi sự.
Chính vì thế người ta bảo: KHOA HỌC DẪN ĐẾN THIÊN CHÚA. VŨ TRỤ VẬT CHẤT CHÍNH LÀ
BÍ TÍCH CỦA THIÊN CHÚA”.
PHỤ CHÚ:
NĂM ĐƯỜNG LỐI TRIẾT HỌC CHỨNG
MINH CÓ THIÊN CHÚA CỦA THÁNH TÔMA TIẾN SĨ.
Thánh Thomas d’Aquin (1225 –
1274), một vị tiến sĩ thần học rất nổi tiếng trong thời trung cổ cũng đề ra 5
đường lối nhằm chứng minh có Thiên Chúa được tóm tắt như sau:
1. Sự chuyển động của vũ trụ
chứng minh có Thiên Chúa:
Bất cứ một vật nào đang chuyển
động cũng phải lệ thuộc vào mộtđộng lực khác. Chẳng hạn: một chiếc xe đang chạy
là do người tài xế đã rồ máy và điều khiển tay lái, một viên đạn bay ra khỏi
nòng súng, một nồi nước đang sôi lên sung sục là do tác dụng của lửa làm nóng
nước lên. Vậy thì khi nhìn vào vũ trụ, ta thấy có sự chuyển động của các hành
tinh, thì cũng phải có một động lực nào đó đã ảnh hưởng tới và làm cho chúng
xoay vần di chuyển trong không gian. Động lực ấy chính là Thiên Chúa.
2. Luật nhân quả chứng minh có
Thiên Chúa:
Nhìn vào vũ trụ vật chất, ta nhận
thấy có sự liên hệ mật thiết giữa vật này với vật kia, vật có sau phải lệ thuộc
chặt chẽ vào một nguyên nhânđã có trước. Chẳng han: có khói là phải có lửa, có
con là phải có cha mẹ. Nếu cứ suy luận lên mãi thì cuối cùng phải đi đến một
nguyên nhân tự mình hiện hữu, chứ không lệ thuộc vào một nguyên nhân nào khác
mới hợp lý. Nguyên nhân tự hữuấy là Thiên Chúa.
3. Sự sắp sếp trật tự minh chứng
có Thiên Chúa:
Kinh nghiện cho ta biết: sự may
rủi bao giờ cũng đi đôi với vô trật tự hỗn độn. Chẳng hạn: lấy 24 chữ cái A B C
D... viết vào các mảnh giấy rồi bỏ trong một chiếc hộp, sau đó lắc hộp và đổ
giấy ra, không bao giờ đạtđược thứ tự như cũ A B C D... Trái lại, bất cứ vật gì
có sự xếp đặt trât tự thìđều là kết quả một trí khôn nào đó. Chẳng hạn: nhìn xem
một vườn cây được sắp xếp thứ tự, các cây cối mọc ngay hàng thẳng lối... ta sẽ
quả quyết phải có một trí khôn đã làm chủ cài vườn cây ấy. Cũng vậy, khi quan
sát vũ trụ thiên nhiên, ai ai cũng thấy có sự xếp đặt kỳ diệu từ cài cực to như
các hành tinh đến cái cực nhỏ như nguyên tử, từ sự sống thấp nơi thảo mộc cây
cối đến sự sống phức tạp, trổi vượt nhất nơi loài người... Từ đó, họ sẽ đi đến
kết luận: Phải có mộtĐấng nào đó toàn năng siêu việt... đã an bài cho vạn vật có
trật tự kia. Đấng toàn năng ấy là Thiên Chúa
4. Bậc thang giá trị nơi vạn vật
minh chứng có Thiên Chúa:
Khi quan sát vạn vật trong vũ trụ
ta thấy chúng có những bậc thang giá trị khác nhau: Có vật thì ít, có vật lại
rất mỹ miều và đáng yêu, có vật ít hữu ích nhưng cũng có vật lại có ích lợi rất
nhiều, có vật lại tầm thường, nhưng cũng có những vật thật là cao quý... từ đó,
ta suy ra: phải có một vị nào đó có mọi điều tốt đẹp, cao quý nhât... làm tiêu
chuẩn cho vạn vật trong vũ trụ hữu hạn này. Đấng tuyệt đối ấy chính là Thiên
Chúa.
5. Cứu cánh của vạn vật minh
chứng có Thiên Chúa:
Cứu cánh có nghĩa là cùng đích,
là mục đích chính yếu cuối cùng tuyệt đối... Mỗi người chúng ta đều tự nhiên cảm
thấy có ước muốn, khát vọng vô bờ biển. Không một sự gì đã đạt đươc, lại có thể
làm ta thỏa mãn, đem lại cho ta hạnh phúc hoàn toàn. Do đó, bên trên mọi điều
mong ước, về vật chất cũng nhưtinh thần, ta ước muốn mọi cách gì bền bỉ, hoàn
hảo, vĩnh viễn... Sự hoàn hảo tuyệt đối mà con người mong muốn đạt tới ấy gọi là
cứu cánh của con người. Cứu cánh ấy không thể có trong vạn vật ở trần gian mà
chỉ có được ở nơi Thiên Chúa. Chính sự khát vọng tuyệt đối, sự hướng về cứu cánh
tuyệt đối ấy là bằng chứng chứng minh có Thiên Chúa. Thánh Augustin nói: “Lạy
Chúa, Chúa đã dựng lên con vì Chúa, nên tâm hồn con luôn sao xuyến mãi cho tới
khi con được nghỉ yên trong Chúa”.
TÓM LẠI:
Với trí khôn suy luận từ sự vận chuyển của
các vật bị động đến một động lực không bị động, từ các vật không thể tự mình mà
có đến một Đấng TựHữu, từ sự trật tự của vũ trụ đến một TRÍ KHÔN TOÀN NĂNG đã an
bài xếp đặt từcác bậc thang giá trị của vạn vật đến một giá trị TUYỆT ĐỐI VÔ
HẠN, từ sự mongước tuyệt đối đến một Đấng là Cứu Cánh mà vạn vật hướng về... tất
cả đã chứng minh cho chúng ta một điều không thể chối cãi được. Đó là: vũ trụ
vạn vật đã do Thiên Chúa tạo dựng lên. Nhưng Thiên Chúa ở đây vẫn chỉ là một Vị
Thiên Chúa trìu tượng, xa xôi, không có liên hệ bao nhiêu với mỗi người chúng
ta. Thiên Chúa của các triết gia mà thôi. Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ là một
Thiên Chúa của tình thương liên lạc chặt chẽ với loài người và đã bày tỏ bản
tính của Ngài qua các tổ phụ, các tiên tri trong thời Cựu Ước. và qua chính Con
Một Ngài là Đức Giêsu Kitô trong thời Tân Ước. Tất cả những điều Thiên Chúa mạc
khải ấyđã được chép lại thành môt bộ sách gọi là Sách Thánh Kinh. Do đó, ngoài
việc dùng lý trí suy luận để biết có Thiên Chúa, con người còn có bổn phận phải
tìm hiểu học hỏi Thánh Kinh để biết về Ngài như thế nào, nhờ đó sẽ tỏ lòng biết
ơn bằng cách tôn thờ, cảm tạ, yêu mến, cầu xin và vâng Lời Ngài một cách dễ dàng
hơn.
Nguồn: HIỆP HỘI THÁNH MẪU
HỒNG PHÚC ( Sưu tầm )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét